30 thg 7, 2010

Cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn

Ở đường Chi Lăng (TP Huế), vẫn còn một trong những người cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn còn sống. Bà tên là Trần Thị Vui. Sáu năm mang danh phận cung nữ là khoảng ký ức đeo đẳng mãi tới cuối cuộc đời bà.
Người cung nữ ngày ấy
 
Đứng trước một ngôi nhà nhỏ ba gian kiểu Huế, tôi vừa nhắc đến tên bà, những người trong nhà vọng ra vồn vã: “Cô đến từ hội từ thiện phải không?”. Ngay sau đó, tôi được kéo đến một căn phòng xi măng nóng nực, hôi hám.
 
Tôi còn ngỡ ngàng, chưa hiểu mọi chuyện thì một người chừng trên 80 tuổi xuất hiện, tự giới thiệu mình là Trần Thị Vui. Dáng điệu bà khắc khổ, không mang những nét cao sang như người ta vẫn nghĩ đến cái danh phận của người cung nữ. Nhưng nét hồ hởi của bà thì hiện rõ. Có lẽ lâu lắm rồi mới có người nhắc đến cái tên của bà từ thời thiếu nữ xa xôi...
 
Căn gác bà ở trống không, chỉ duy nhất một chiếc tủ nhỏ cũ kỹ thời xưa bằng gỗ. Câu chuyện cứ thế được bắt đầu trong không gian chật và nóng ấy.
 
Mẹ của bà Vui cũng là một cung nữ trong Đại Nội thời vua Khải Định, có tên là Tôn Nữ Thị Biên. Bà Biên có qua lại với một người đàn ông họ Trần, cháu của một phi, vợ vua Đồng Khánh. Khi bà Biên có thai thì không được gia đình kia chấp nhận vì danh phận cung nữ nên bà Biên ở vậy nuôi con. Năm bà Vui lên 16 tuổi thì được mẹ mình giới thiệu vào nội cung làm cung nữ hầu bà Từ Cung - mẹ vua Bảo Đại tại cung Từ Diên.
 
Ký ức về một thời làm cung nữ của bà bắt đầu từ đó.
 
Bà Vui, người cung nữ năm xưa, nhân chứng sống về cuộc sống hoàng cung nơi triều Nguyễn.
 
“Không phải ai cũng được tuyển vào làm cung nữ, chỉ có những người thuộc dòng dõi của nhà vua mới được vào làm. Mẹ tôi là cháu hệ 5, phòng hoàng tử Diễn Quốc Công, vì vậy tôi mới có cái duyên phận được vào làm cung nữ. Làm cung nữ có lẽ là quãng thời gian đẹp nhất với tôi”, bà Vui nói.
 
Theo nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan, những người được tuyển vào làm cung nữ đa số đều chưa có gia đình. Ngày đó, nếu nói nguyên tắc thì không phải, tuy nhiên cuộc sống của vua thì không ai được tiết lộ ra ngoài.
 
Cũng vì lý do đó, những cung nữ khi được tuyển chọn vào cung phải biết nguyên tắc và không ai được đùa giỡn, chuyện trò nhiều. Đối với xã hội ngày ấy, trong con mắt của những người dân thường, cung nữ là người có địa vị cao vì được phép ra vào nơi vua ở, được thấy mặt vua, thấy mặt mẹ vua. Nhưng thực ra thân phận của cung nữ trong nội cung là những thân phận không được tự chủ.
 
Hồi ức về vua Bảo Đại
 
Mặc dù là cung nữ hầu mẹ vua nhưng ký ức của bà Vui lại lưu giữ khá nhiều mảnh ghép liên quan đến vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều Nguyễn. Bà nhớ lại: “Công việc của tôi ngày ấy là quạt và bóp chân hầu hạ bà Từ Cung. Có đến bốn, năm người hầu hạ bà như chúng tôi. Nhưng điều mà tôi nhớ nhất là những kỷ niệm vụn vặt về vua Bảo Đại”.
 
Theo lời kể của bà Vui, vua Bảo Đại là người rất hiện đại. Ông không có nhiều cung tần, thứ phi như các đời vua trước. Ông và Nam Phương hoàng hậu đã cùng thề thốt với nhau và nên duyên vợ chồng. “Tôi không biết thực tế cuộc sống hôn nhân của ông còn có người khác không nhưng ở trong cung thì chỉ có duy nhất bà Nam Phương hoàng hậu là chính danh vợ vua” - bà Vui cho biết.
 
Cũng theo bà Vui, vì vua không còn nhiều cung tần, thứ phi nên nội cung ngày đó cũng êm thắm, không có nhiều những cảnh các cung phi ghen ghét nhau hoặc ngày ngày chờ vua ban ân sủng.
 
Trong lúc kể chuyện về vua Bảo Đại, bà Vui còn đứng dậy diễn tả lại hành động của vua mỗi khi cùng Nam Phương hoàng hậu đến thăm mẹ. Vua cùng hoàng hậu nhảy xoay tròn một vòng rồi mới vào gặp mẹ.
 
Bà hào hứng kể: “Vua Bảo Đại hiền và dễ tính. Mỗi lần ông đánh cờ, tóc mái xõa xuống, cung nữ quạt hầu khiến tóc ông bay vào mắt nhưng ông không trách mắng gì. Chỉ khi nào Nam Phương hoàng hậu cau mày thì người hầu mới hiểu và tránh quạt mạnh. Vua Bảo Đại rất thích ăn vặt, các món ăn nhà vua thích lúc nào cũng được nhà bếp chuẩn bị sẵn là bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc”.
 
Năm 1945, khi vua Bảo Đại thoái vị và trao ấn kiếm lại cho Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bà Vui cùng mẹ ruột của mình ra khỏi nội cung và trở về lại cuộc sống đời thường. Sau đó, bà Vui lấy chồng và tập quên đi những tháng ngày trong cung cấm.
 
Bà Vui không may mắn như nhiều phụ nữ khác. Sau khi lấy chồng, bà không sinh được người con nào nên đã phải cưới vợ hai cho chồng. Giờ tuổi già của bà cũng phải nương nhờ vào những người con của chồng.
 
Lãng quên cái thật...
 
Đã bao nhiêu năm trôi qua, bà Vui cũng phải quên dần cái danh phận mình từng mang.
 
Bà nói: “Năm ngoái, một nhóm khách Nhật ghé thăm tôi. Họ luôn hỏi tôi về triều đình nhà Nguyễn, về vua Bảo Đại, sở thích của nhà vua và công việc của cung nữ thực sự như thế nào. Nhưng năm nay thì không thấy ai ghé về nữa...”.
 
Hình ảnh Đêm hoàng cung của Huế với các cung nữ (những sinh viên đóng vai) pha trà, rót nước, nói chuyện... trong tà áo dài đã không còn lạ trong mắt du khách khi đến Huế... Thế nhưng điều mà du khách chiêm ngưỡng vẫn chỉ là những gì người ta dựng lại. Còn người cung nữ cuối cùng của triều Nguyễn vẫn sống thật ở đời chẳng ai biết.
 
Bàn về điều này, nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan băn khoăn: “Tôi không hiểu tại sao ngành du lịch Huế lại không nghĩ ra, rằng chính những con người của một thời đó sẽ là đặc sản của ngành du lịch Huế. Chỉ cần bà Vui ngồi đó, mặc áo dài như cung nữ, pha trà và kể lại một vài câu chuyện, sinh hoạt trong cung ngày xưa. Vậy thôi cũng đủ hấp dẫn du khách rồi. Bởi lẽ người dân thường vẫn luôn tò mò: Vua ăn món gì nhỉ? Có phải toàn là những món sơn hào hải vị không?... Tất cả những gì liên quan đến vua chúa, dù là những điều đời thường nhất cũng sẽ là chuyện hay rồi”.
 
Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan giải thích: Cung nữ trong vua có hai loại danh phận nhưng đều là những người hầu hạ vua và gia đình nhà vua. Thứ nhất đó là những người con gái còn trinh, được vua tuyển vào để có quan hệ hôn nhân với vua. Thứ hai là được tuyển vào để hầu hạ cho gia đình vua, được gọi là cung nữ hay thị nữ, phục vụ việc vặt như quạt, têm trầu, đấm bóp. Do họ là những người không có địa vị trong xã hội phong kiến ngày xưa nên rất ít tài liệu ghi chép về họ.
 
Theo Mai Phương
Báo Pháp luật TPHCM

26 thg 7, 2010

Đức Phật có phải là bậc nhất thiết trí không?

31/05/2008 20:26 (GMT+7) (Báo Giác Ngộ online)

Trong thời gian qua, tôi có xuất bản một vài tác phẩm, nhất là tác phẩm “Nghiên Cứu về 5 Việc của Đại Thiên” được một số độc giả đồng tình, nhưng cũng có một số phê phán.

Với tôi việc khen và chê được xem như là điều kiện tốt nhất để kiểm tra lại công trình nghiên cứu của mình, nó không là sự chướng ngại, vì khen và chê là cảm nhận cá nhân của từng người, do vậy nó không phải là điều mà tôi phải bận lòng. Điều mà tôi quan tâm nhất là sự trình bày của mình nó có gắn liền với lịch sử, tiếp cận với sự thật được bao nhiêu?

Vấn đề: Đức Phật có phải là bậc Nhất thiết trí hay không ? được đặt ra và sẽ được thảo luận trong bài viết này, có lẽ nó không được nhiều người hoan nghênh tán đồng, nhưng nó là vấn đề đã được đức Phật lập đi lập lại nhiều lần, được ghi lại khá nhiều trong kinh điển A hàm và NiKŒya, sẽ được người viết trích dẫn, tổng hợp, phân tích và lý giải theo theo quá trình phát triển tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ. Theo nhận thức của người viết nó là một trong những điểm tranh cãi giữa hai hệ thống tư tưởng của Thượng Tọa bộ và Đại Thừa. Đó cũng chính là lý do tại sao Bồ Tát Long Thọ (NŒgŒrjuna) ở phần Duyên khởi trong tác phẩm “Luận Đại Trí Độ” (MahŒpraj�ŒpŒramitŒ§Œstra) Ngài đã nêu lý do tại sao đức Phật nói Kinh Bát Nhã như sau:

“Lại nữa, có kẻ hoài nghi rằng Phật không chứng được Nhất thiết trí, vì cớ sao ? Vì các pháp vô lượng, vô số, làm sao một người mà có thể biết tất cả pháp ? Phật trú trong Pháp Bát-nhã Ba-la-mật thật tướng thanh tịnh như hư không, vô lượng vô số, mà tự nói lên lời chân thật rằng: “Ta là bậc Nhất thiết trí, muốn dứt hết thảy nghi ngờ của chúng sanh”; vì thế, Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật”[1].

Nội dung đoạn văn vừa dẫn, nó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, chính Long Thọ xác nhận có người không tin đức Phật là bậc Nhất thiết trí. Một vấn đề nữa mà chúng ta cũng cần chú ý, Bồ Tát Long Thọ gọi: ‘có kẻ hoài nghi rằng Phật không chứng được Nhất thiết trí’, kẻ đó là ai? người ngoại đạo hay trong Phật giáo? Đây là những vấn đề mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong bài viết này.

Để tránh sự hiểu lầm, người viết xin giới hạn phạm vi thảo luận là trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, chủ yếu các kinh A hàm và Nik aya.

1.     Nhất thiết trí vốn là quan điểm của sáu phái ngoại đạo
Phật giáo là tôn giáo được xuất hiện khoảng thế kỷ thứ 6 trước CN tại nước Ấn Độ. Phật giáo là một tôn giáo có hệ thống giáo lý độc lập, hay nói đúng hơn chống lại tư tưởng truyền thống và phi truyền thống Ấn Độ, tuy nhiên sau khi đức Phật nhập diệt, trong quá trình phát triển, ít nhiều Phật giáo cũng chịu ảnh hưởng văn hóa tôn giáo của Ấn Độ. Trong đó quan điểm Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến là một điển hình, nó vốn là quan điểm của 6 phái ngoại đạo, trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy đức Thế Tôn phủ nhận quan điểm này, thế nhưng sau khi Thế Tôn nhập diệt Phật giáo Đại Chúng Bộ và Đại thừa lại cho rằng đức Phật là bậc Nhất thiết trí. Vì để chúng ta nắm rõ sự diễn biến tư tưởng Phật học ngang qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, cho nên ở đây tôi xin giới thiệu một vài kinh để chúng ta hiểu rằng quan điểm Nhất thiết trí vốn là của ngoại đạo. Trước hết chúng ta thử căn cứ ‘Kinh Tiễn Mao’ (II) trong “Kinh Trung A hàm” đề cập như sau:

“Bạch Cù-đàm, đó là Bất-lan Ca-diếp. Vì sao? Bạch Cù-đàm, vì Bất-lan Ca-diếp  tự cho là thật có Tát-vân-nhiên, biết tất cả, thấy tất cả, không gì không biết, không gì không thấy. Tôi có sách lự, có tư duy, trụ trong sách lự, trụ trong tư duy có trí tuệ, có biện tài; tôi đến vấn sự. Nhưng vị ấy không biết. Bạch Cù-đàm, vậy nên tôi nghĩ thế này, ‘Đây là những ai?’
“Ma-tức-ca-lợi Cù-xá-lợi Tử, Bà-nhã Bệ-la-trì Tử, Ni-kiền Thân Tử, Ba-phù Ca-chiên, A-di-đa Kê-xá Kiếm-bà-lợi, các vị này cũng vậy. Bạch Cù-đàm, A-di-đa Kê-xá Kiếm-bà-lợi tự cho thật sự có Tát-vân-nhiên, biết tất cả thấy tất cả, không cái gì không biết, không cái gì không thấy. Tôi có sách lự, có tư duy, trú trong sách lự, trú trong tư duy, có trí tuệ, có biện tài, tôi đến vấn sự những vị ấy không biết.’[2]

Hoặc trong Nam truyền “Kinh Tăng Chi” tập 4 cũng lại ghi rằng:, trang 182~186
“Thưa Tôn giả Gotama, Pèrana Kassapa, bậc toàn tri, toàn kiến, tự nhận mình là có tri kiến toàn bộ không dư, nói rằng: "Khi ta đi, ta đứng , ta ngủ, ta thức, tri kiến được an trú liên tục thường hằng". Vị ấy nói như sau: "Với trí vô biên, ta sống, biết và thấy thế giới hữu biên". Thưa Tôn giả Gotama, Nigantha NŒtaputta, bậc toàn tri, toàn kiến, tự nhận mình là có tri kiến toàn bộ không dư, nói rằng: "Khi ta đi, ta đứng , ta ngủ, ta thức, tri kiến được an trú liên tục thường hằng". Vị ấy nói như sau: "Với trí hữu biên, ta sống, biết và thấy thế giới hữu biên".[3]

Tất nhiên, ngoài hai bản kinh vừa dẫn rất còn nhiều kinh đề cập đến các phái ngoại đạo tự xưng Tổ sư của mình là bậc Nhất thiết trí. Đây chỉ là sự trích dẫn điển hình.

Trong Kinh Tiễn Mao vừa đề cập sáu nhân vật, đó là tên của các vị lãnh đạo của sáu phái ngoại đạo mà trong kinh điển Phật giáo thường đề cập. Thứ nhất là Bất-lan Ca-diếp (Pèraöa-Kassapa), vốn là vị lãnh đạo phái phủ nhận giá trị đạo đức. Ông thuộc giai cấp nô lệ, sinh ra ở máng chuồng bò, có lần ông đào tẩu kiếp làm nô lệ, nhưng lại bị chủ bắt, lột hết quần áo, có lẽ do vậy mà ông chủ trương không có giá trị khi làm thiện cũng như làm ác, chết là hết; Thứ hai là Ma-tức-ca-lợi Cù-xá-lợi Tử (Makkhali-GosŒla) là vị lãnh đạo phái định mệnh, phủ nhận sự nỗ lực của con người, cứ trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp là thoát được kiếp luân hồi và giải thoát; Thứ ba Bà-nhã Bệ-la-trì Tử (Sa�jaya BelaÊÊhiputta) là vị Tổ Sư của phái hoài nghi, cho rằng mọi việc xảy ra trong cuộc sống, con người không thể quyết định gì cả, phải cũng đúng mà trái cũng đúng, lập luận trườn uốn như con lương. Xá Lợi Phật và Mục Kiền Liên trước khi xuất gia theo đạo Phật xuất thân từ phái này; Thứ tư, Ni-kiền Thân Tử (NigaöÊha NŒtha-putta) là một trong những vị Tổ sư của phái Kỳ Na Giáo, chủ trương tu tập khổ hạnh, cho rằng thân xác càng khổ bao nhiêu nghiệp báo càng mau tiêu trừ; Thứ năm Ba-phù Ca-chiên (Pakudha-Kaccayana) là vị lãnh đạo phái duy vật, cho rằng con người do bảy yếu tố kết hợp mà thành, những yếu tố này tan rã, con người liền chết và không còn gì sau đó; Thứ sáu A-di-đa Kê-xá Kiếm-bà-lợi (Ajita Kesa Kambala) là bậc đạo sư của phái đoạn diệt, cho rằng con người do tứ đại (đất nước lửa gió) kết hợp lại mà thành, 4 đại tan rã con người chết, linh hồn cũng theo đó mà mất. Đây là tên của sáu phái ngoại đạo.

Qua nội dung của hai bài kinh vừa dẫn cho thấy, các vị đạo sư của sáu phái ngoại đạo này đều tự cho rằng họ là những bậc Nhất thiết trí, nhất thiết kiến, có nghĩa là cái gì cũng thấy, cái gì cũng biết, ngay cả khi ngủ họ cũng thấy cũng biết. Tuy nhiên, Thế Tôn cho rằng, sự tự xưng như thế chỉ là sự lừa dối chính mình và người khác, vì có những việc ngay ở bản thân họ, nhưng họ không hề hay biết. Mục đích thảo luận chính của mục này không phải là thảo luận những vị Đạo sư này thật sự có Nhất thiết trí, nhất thiết kiến hay không, ở đây người viết chỉ muốn xác định quan điểm: Nhất thiết trí, nhất thiết kiến vốn là loại văn hóa ca tụng đấng tôn sư của các tôn giáo ở Ấn Độ, trước khi Phật giáo xuất hiện.

2.     Đức Phật phủ nhận Ngài không phải là vị Nhất thiết trí, nhất thiết kiến
Như vừa đề cập, các bậc Đạo sư của sáu phái ngoại đạo đều cho rằng họ là người Nhất thiết trí, nhất thiết kiến. Thế thì quan điểm của Phật như thế nào về vấn đề này ? Liên quan đến vấn đề này trong A Hàm và NikŒya, nhất là trong “Trung A Hàm” và “Trung Bộ Kinh” có nhiều kinh đức Thế Tôn bày tỏ quan điểm không đồng tình Ngài có Nhất thiết trí, nhất thiết kiến qua ba khía cạnh sẽ được trình bày dưới đây như sau:

a. Thế Tôn phủ nhận khi ngủ ý thức vẫn tri kiến (nhận thức)
Sau khi đức Thế Tôn thành đạo nhân cách và lời dạy của Ngài giống như ánh bình minh phá tan màn đêm bị bao phủ bởi văn hóa truyền thống của Ấn Độ. Sự xuất hiện của Ngài càng ngày càng được nhiều người ngưỡng mộ, không những chỉ có người dân mà ngay cả vua chúa, các vị Đạo sư các Tôn giáo, các nhà triết học đều tỏ lòng kính ngưỡng Ngài. Tiếng đồn tốt đẹp về Ngài bay khắp bốn phương, trong ấy cũng không sao tránh khỏi có những tiếng đồn mang tính thần thoại không trung thực về Ngài. Câu chuyện giữa Thế Tôn và du sĩ Vacchagotta được ghi lại trong “Kinh Trung Bộ” “Kinh Ba Minh Vacchagota” (Tevijja-vacchagotasuttam) là một điển hình cụ thể. Với nội dung như sau:

“Du sĩ Vacchagotta bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: “Sa-môn Gotama là bậc nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: “Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục”. Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: "Sa-môn Gotama là bậc nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại liên tục". Bạch Thế Tôn, những vị ấy nói về Thế Tôn có đúng với điều đã được nói, những vị ấy không vu khống Thế Tôn với điều không thực, nhưng đã giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và không một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách ?

– Này Vaccha, những ai nói như sau: "Sa-môn Gotama là bậc nhứt thiết trí, là bậc nhứt thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục". Thì đấy là họ nói về Ta không đúng với điều đã được nói, họ đã vu khống Ta với điều không thực, hư ngụy.”[4] 

Ý nghĩa chính của đoạn kinh vừa dẫn, du sĩ Vaccchagotta nghe tin đồn, Thế Tôn là bậc Nhất thiết trí, nhất thiết kiến, có nghĩa là trong lúc đi đứng nằm ngồi thậm chí khi ngủ ý thức của Ngài luôn luôn tỉnh thức. Nói một cách khác, 24 giờ trong một ngày đêm ý thức luôn tỉnh táo ngay khi ngủ. Đức Thế Tôn đã phủ nhận điều này, chính Ngài xác nhận rằng, lời đồn đó là sai sự thật, không đúng sự thật, Ngài còn nhấn mạnh rằng, đó không phải là lời ca ngợi mà là lời vu khống hủy báng Thế Tôn.

Để cho vấn đề được rõ ràng hơn, chúng ta cần làm rõ tại sao Thế Tôn phủ nhận và phủ nhận điểm nào ? Theo tôi điểm mà đức Phật không đồng tình trong câu hỏi này chính là khi ngủ vẫn hiểu, vẫn biết. Vì sao, vì khi con người ngủ có nghĩa là 5 giác quan là mắt tai mũi lưỡi và thân tạm thời ngưng hoạt động để cho ý thức được nghỉ ngơi, khi ý thức nghỉ ngơi thì cái gì hoạt động để hiểu và biết. Có khá nhiều kinh đức Phật xác nhận Ngài vốn là một con người như bao nhiêu con người khác, do vậy khi Ngài ngủ cũng giống như mọi người, nếu có khác đi chăng nữa Ngài ngủ ít và không mê như con người, ngủ ít không mê không đồng nghĩa là khi Ngài ngủ mọi việc xảy ra đều biết và đều thấy. Theo tôi, đây chính là lý do tại sao đức Phật phủ nhận lời đồn đãi mang tính thần thoại ca ngợi về Ngài. Nhân tiện tôi xin trích dẫn một vài trường hợp đức Phật xác nhận Ngài sinh ra và lớn lên vốn là con người. Như “Kinh Tăng Nhất A Hàm” nói:

 “Thân ta được sinh ra từ nhân gian, trưởng thành từ nhân gian, cũng từ nhân gian mà thành Phật”(我身生於人間,長於人間,於人間得佛.)[5]

Nội dung và ý nghĩa đoạn kinh này, xác định đức Phật vốn là con người, sinh ra là con người, được nuôi dưỡng và trưởng thành bằng những chất liệu của con người, từ con người tu dưỡng mà thành Phật. Mặt trái ý nghĩa này muốn nói lên rằng, Ngài không phải là thần tiên, không phải là một vị trời thần từ một cõi khác đến đây. Điều đó Ngài muốn nói với mọi người rằng, mọi người chúng ta đều có khả năng thành Phật, nếu như con người cải tà qui chánh, bỏ ác làm lành, diệt tham sân si hành giới định tuệ. Nếu thế thì giữa Ngài và mọi người chúng ta khác nhau như thế nào ? Câu trả lời được ‘Kinh Thanh Bạch Liên Hoa Dụ’ trong “Kinh Trung A Hàm” đức Thế Tôn giải thích:

 “Giống như hoa sen xanh, hồng, đỏ, trắng sanh từ trong nước, lớn lên trong nước, vượt lên khỏi mặt nước, không bị dính nước. Cũng như thế, Như Lai sanh từ trong thế gian, lớn lên trong thế gian, tu hành vượt trên thế gian, không đắm trước pháp thế gian. Vì sao? Vì Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, vượt khỏi tất cả thế gian.”[6]

Ở đây Ngài ví mình giống như loài hoa sen, được sinh ra từ bùn từ nước, được nuôi dưỡng cũng nhờ bùn và nước, nhưng hoa sen không bị bùn nước làm ô nhiễm. Cũng vậy, Ngài là con người sinh ra và lớn lên từ thế gian, nhưng Ngài không bị nhiễm ô từ thế gian, cho nên Ngài được gọi là Phật, còn chúng ta bị đắm trước ngũ dục cho nên gọi là chúng sanh. Sự khác biệt giữa Phật và chúng sinh chỉ là đắm trước hay không đắm trước. Bị đắm trước cho nên gọi là chúng sanh, không bị đắm trước cho nên gọi là Phật. Không đắm trước là thái độ được nuôi dưỡng bởi lòng không tham, không sân và không si và ngược lại lòng đắm trước được trưởng thành từ lòng tham lam, sân hận và si mê. Đây là sự khác biệt giữa Phật và chúng sanh. Ở đây chúng ta cần chú ý một điều sự khác biệt đó là sự khác biệt về sự nhận thức, nhưng về mặt thân thể thì thân thể của Ngài và chúng sanh giống nhau. Điều đó có nghĩa là, con người cần phải ăn uống và ngủ nghỉ thì đức Phật cũng cần nuôi dưỡng bằng những chất liệu đó. Thế thì khi đã ngủ thì làm sao biết được, thấy được những gì xảy ra trong khi ngủ ? Ngay cả khi thức cũng không ai có thể biết được mọi việc trên thế gian, bản thân Ngài cũng thế, Ngài cần biết những gì cần biết, những gì không liên quan đến cuộc sống tu tập phạm hạnh Ngài không cần phải biết. Đây chính là lý do tại sao Ngài không thừa nhận Ngài là bậc Nhứt thiết trí, nhứt thiết kiến, ngay cả khi ngủ cũng biết cũng thấy, mặc dù các tôn giáo đương thời đều cho rằng các vị đạo sư của họ là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến, nhưng riêng Ngài không đồng tình. Ngài không muốn sử dụng sự thần thánh hóa để mê hoặc chúng sanh. Có lẽ đây chính là lý do tại sao Ngài nói:

“Như Lai đối với quá khứ, vị lai, hiện tại, nói đúng thời, nói sự thật, nói có nghĩa, có lợi, nói đúng pháp, đúng luật, không có lời hư dối. Phật từ đêm đầu tiên thành vô thượng chánh giác cho đến đêm cuối cùng, trong khoảng giữa, có nói điều gì, thảy đều như thật; do đó gọi là Như lai. Lại nữa, những điều Như Lai nói đúng với sự, sự đúng với lời, do đó gọi là Như Lai.”[7]

Từ thật tế cuộc sống cho chúng ta kinh nghiệm, gian dối nói không đúng sự thật, nó không phải là con dao hay viên đạn có thể giết người chết trong giây lát, nhưng xét cho cùng sự nguy hiểm của lời nói gian dối không đúng sự thật không kém phần nguy hiểm, làm kinh tế mà gian dối lừa gạt, mất niềm tin khách hàng đó là nguyên nhân phá sản, trong học tập mà gian dối thì dù có tốt nghiệp cũng không ai thuê mướn những người thiếu khả năng. Vì vậy, trong tôn giáo cũng thế, cách thần thánh hóa không những không có ích lợi gì cho bản thân mình mà còn có hại cho người khác. Mục đích giáo dục của đức Phật là giác ngộ và giải thoát, giải thoát từ giác ngộ mà có, không phải là vật ai cho, giác ngộ là chính mình hiểu rõ sự thật vấn đề, cũng không phải là cái do ai trao truyền. Như vậy, người muốn được giác ngộ giải thoát chính người ấy phải tu và chứng. Đây chính là ý nghĩa đức Phật định nghĩa từ Như Lai: “Như Lai nói đúng với sự; sự đúng với lời, do đó gọi là Như Lai.” Nếu như Thế Tôn đã định nghĩa về Ngài như thế, vô lý Ngài lại chấp nhận những gì mà Ngài không có. Nếu như ai đó vì kính phục Ngài ca ngợi Ngài không đúng với sự thật, Ngài cho rằng lời ca ngợi đó là những lời hủy báng Như Lai không phải là ca ngợi Như Lai.

b. Phủ nhận trong một sát na thấy tất cả và biết tất cả
Liên quan đến vấn đề có hay không Nhứt thiết trí, nhứt thiết kiến, trong “Kinh Trung A hàm” ‘Kinh Nhất Thiết trí’ có ghi lại câu chuyện giữa vua Ba Tư Nặc nước Câu Tát La và Thế Tôn như sau:

“Ba-tư-nặc vua nước Câu-tát-la hỏi rằng: “Bạch Cù-đàm, con nghe Sa-môn Cù-đàm nói như vầy, ‘Trong quá khứ không có, trong tương lai không, và hiện tại cũng không có, không có Sa-môn Phạm chí nào là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến’. Bạch Cù-đàm, Ngài đã nhớ là đã nói như vậy chăng?

Thế Tôn đáp rằng: “Này Đại vương, Ta không nhớ là đã nói như vậy, ‘Trong quá khứ không có, trong tương lai không có, và hiện tại không có, không có Sa-môn Phạm chí nào là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến’.”[8]
 “Thế Tôn đáp rằng: “Này Đại vương, Ta nhớ đã từng nói như vầy, ‘Trong quá khứ không có, trong tương lai không có, trong hiện tại cũng không có, không có Sa-môn Phạm chí nào trong một thời biết tất cả, trong một thời thấy tất cả’. Này Đại vương, Ta nhớ đã nói như vậy.”[9]

Sau khi bị Thế Tôn phủ nhận Ngài không có phát biểu như vậy, cho nên Vua Ba Tư Nặc nước Câu Tát La lại hỏi: Thế thì Ngài đã phát biểu như thế nào về vấn đề này ?

Qua nội dung vấn đáp giữa vua Ba Tư Nặc và Thế Tôn cho thấy, trong câu hỏi thứ nhất đức Phật phủ nhận Ngài không nói như vậy, vì vua Ba Tư Nặc đã lập lại lời nói của Thế Tôn, nhưng lập lại không đầy đủ và sai ý. Ngài chưa từng nói: ‘Trong quá khứ trong tương lai, cũng như ở hiện tại không có Sa-môn Phạm chí nào là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến’ mà Ngài chỉ có nói rằng: ‘Trong quá khứ, trong tương lai cũng như trong hiện tại không có Sa-môn Phạm chí nào trong một thời (sakideva), biết tất cả, thấy tất cả’. 

Như vậy, nội dung chính mà đức Phật phủ nhận chính là trong một thời gian một lúc biết tất cả thấy tất cả (nhất thiết trí, nhất thiết kiến) mọi việc ở trong thế gian, Ngài xác nhận rằng trong quá khứ, hiện tại ngay cả ở tương lai cũng không ai có khả năng đó, ngay cả chính Ngài. Vì sao ? vì khả năng suy tư và hiểu biết của con người ngay cả người được gọi là giác ngộ cũng chỉ có thể nhận biết một đối tượng. Nếu có sự khác nhau giữa bậc giác ngộ và chúng sanh chỉ là sự khác biệt, bậc giác ngộ nhận thức đối tượng bằng ‘như lý tác ý’[10] hay ‘chánh kiến’ còn chúng sanh thì nhận thức đối tượng bằng ‘phi như lý tác ý’ hay ‘tà kiến’, không có nghĩa là trong một lúc Ngài biết tất cả. Nếu như sáu phái ngoại đạo cho rằng, các bậc đạo sư của họ có khả năng, trong một thời gian có thế thấy và biết được mọi chuyện xảy ra trong thế gian, đó cũng chỉ là lời nói hoang đường không đúng với sự thật. Theo đức Phật, lời nói đó vô giá trị với người hiểu biết, không giúp ích gì cho việc tìm cầu giác ngộ và giải thoát. Đây chính là lý do tại sao đức Phật phủ nhận một người có khả năng trong một thời gian biết và thấy tất cả.

c. Phủ nhận cái gì cũng thấy cái gì cũng biết
Như ở mục thứ nhất đề cập, sáu phái ngoại đạo tự cho rằng các bậc đạo sư của họ đều có khả năng biết tất cả và thấy tất cả (Nhất thiết trí nhất thiết kiến). Thế thì quan điểm của đức Phật về vấn đề này như thế nào ? Trong “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 1, đức Phật đã trình bày quan điểm của Ngài như sau:

“Này các Tỷ-kheo, cái gì trong tòan thế giới này ...được thấy, được ý tư sát, Ta đã được biết rõ như sau: Tất cả đều được Như Lai biết đến. Như Lai không có dựng đứng lên. Này các Tỷ-kheo, nếu ta nói rằng: Ta biết tất cả, cái gì trong toàn thế giới ... được thấy, được ý tư sát. Như vậy, là có nói láo trong ta.” [11]

Nội dung và ý nghĩa đoạn kinh vừa dẫn, đức Thế Tôn giải thích, trong thế giới này, những gì được Ngài suy tư quan sát, những cái đó được Như Lai biết một cách rõ ràng, nếu ai hỏi thì Ngài cũng trả lời như vậy, không thêm cũng không bớt, nhưng Ngài không vì sự biết đó lại nói rằng: Như Lai biết tất cả những gì trong thế giới này. Nói như vậy là không đúng sự thật, trở thành lời nói láo. Như Lai không nói lời nói đó, vì một trong những nỗi khổ của cuộc đời là sự dối trá, không tôn trọng sự thật, vì mục đích trục lợi cho mình mà lường gạt người khác. Đức Phật là người sinh ra đời với mục đích đem lại cho chúng sinh sự an lạc và giải thoát. Sự bình an giải thoát đó không thể có từ sự dối trá, không đúng sự thật, cho nên chắc chắn Ngài không nói những lời như vậy. Đây chính là ý nghĩa tại sao Ngài tuyên bố: “Như Lai là người nói sao làm vậy, làm sao nói vậy, nên gọi là Như Lai”. Để làm rõ thêm quan điểm của Phật đối với vấn đề Nhất thiết trí, nhất thiết kiến, chúng ta thấy vấn đề này được “Kinh Trung A Hàm” ‘Kinh A Di Na’ ghi lại cuộc đàm luận giữa Thế Tôn và A Di Na như sau:

“Đức Thế Tôn lại hỏi rằng: A-di-na, thế nào là Sa-môn Man-đầu thật sự tư duy với năm trăm tư duy; nếu có dị học, Sa-môn, Phạm chí nào là vị nhất thiết tri, nhất thiết kiến, tự cho là ‘Ta biết không sót cái gì’, nhưng nếu có lầm lẫn thì cũng phải tự nhận là lầm lẫn?

Dị học A-di-na, đệ tử của Sa-môn Man-đầu, đáp rằng: Thưa Cù-đàm! Sa-môn Man-đầu nói như vầy, ‘Nếu khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ngủ, khi thức, lúc tối hay ban ngày vẫn thường không chướng ngại tri kiến. Nhưng cũng có khi gặp voi chạy càn, ngựa phóng đại, xe ruỗi nhanh, lính bại trận, con trai chạy trốn, con gái chạy trốn, hoặc đi trên con đường nào đó mà gặp voi dữ, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ, hoặc gặp ổ rắn, hoặc bị ném đất, hoặc bị gậy đánh, hoặc lọt xuống rãnh, hoặc rơi vào hầm xí, hoặc đạp lên bò đang nằm, hoặc sa xuống hầm sâu, hoặc đâm vào bụi gai, hoặc thấy thôn ấp mà phải hỏi tên đường, hoặc gặp kẻ trai người gái phải hỏi họ hỏi tên, hoặc nhìn lầm nhà trống, hoặc vào dòng họ nào đó và khi vào rồi được hỏi rằng: ‘Ông ở đâu đến?’ Ta đáp rằng, ‘Này chư Hiền, tôi đi lộn đường’.

Thưa Cù-đàm! Sa-môn Man-đầu đại loại như vậy, tư duy với năm trăm tư duy, và nếu có dị học Sa-môn, Phạm chí nào là bậc nhất thiết trí, nhất thiết kiến, tự cho rằng: Ta biết không sót cái gì’, nhưng vị ấy cũng có những lầm lẫn như vậy.….
Đức Phật lại bảo rằng: Có hai chúng, một là chúng pháp, hai là chúng phi pháp. Sao gọi là chúng phi pháp? Hoặc có người làm việc phi pháp, nói lời phi pháp và chúng ấy cũng làm việc phi pháp, nói lời phi pháp. Người phi pháp ấy đứng đầu trong chúng phi pháp, theo những điều chính mình đã biết, nhưng lại bằng những lời hư vọng, không chân thật mà hiển thị, phân biệt, quy định hành vi, lưu bố, tuần tự thuyết pháp, muốn đoạn trừ sự xấu xa trong tâm ý người khác, bị cật vấn thì không thể trả lời được. Đối với trong Chánh pháp luật không thể xứng lập những điều chính mình đã biết. Nhưng người phi pháp đứng đầu trong chúng phi pháp, tự cho là ‘Ta có trí tuệ, hiểu biết tất cả’. Ở nơi nào mà sự kiện trí tuệ được nói đến như vậy, ở đó được gọi là chúng phi pháp…”[12]

Qua nội dung vấn đáp giữa Thế Tôn và A Di Na, có mấy điểm chúng ta cần chú ý. Thứ nhất, dị học A Di Na xác định có những ngoại đạo tự cho rằng mình có khả năng cái gì cũng biết cái gì cũng thấy, nhưng trên thực tế những người này có lúc vẫn đi lầm đường, gặp phải loài thú hung dữ như voi dữ, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ, rắn độc, hoặc bị ném đất, hoặc bị gậy đánh, hoặc lọt xuống rãnh, hoặc rơi vào hầm xí, hoặc sa xuống hầm sâu, hoặc đâm vào bụi gai… biểu thị lời tuyên bố và thật tế cuộc sống không giống nhau. Thứ hai, theo Thế Tôn cho rằng đây là sự gian dối không đúng sự thật, lời nói phi pháp, phi luật, không liên hệ với mục đích của Phạm hạnh. Thứ ba,  qua hai yếu tố này, điều đó cũng đồng nghĩa đức Phật phủ nhận Ngài không phải là người có khả năng cái gì cũng thấy và cũng biết. 

Đề cập đến vấn đề này, chắc chắn có người đặt nghi vấn: Đức Phật là người đã giác ngộ, có trí tuệ. Thế thì phạm vi hiểu biết của trí tuệ đó như thế nào ? Để trả lời cho câu hỏi này cũng trong “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 1, đức Phật tường tận giải thích: 

“Như vậy, này các Tỷ-kheo, Như Lai là vị đã thấy những gì cần thấy, nhưng không có tưởng tượng điều đã được thấy, không có tưởng tượng những cái gì không được thấy, không có tưởng tượng những gì cần phải thấy, không có tưởng tượng đối với người thấy. Ðã nghe những gì cần nghe, nhưng không có tưởng tượng điều đã được nghe, không có tưởng tượng những cái gì không được nghe, không có tưởng tượng những gì cần phải nghe, không có tưởng tượng đối với người nghe. Ðã cảm giác những gì cần cảm giác, nhưng không có tưởng tượng điều đã được cảm giác, không có tưởng tượng những cái gì không được cảm giác, không có tưởng tượng những gì cần phải cảm giác, không có tưởng tượng đối với người cảm giác. Ðã thức tri những gì cần thức tri, nhưng không có tưởng tượng điều đã được thức tri, không có tưởng tượng những cái gì không được thức tri, không có tưởng tượng những cái gì cần phải thức tri, không có tưởng tượng đối với người thức tri.”[13] 

Nếu chúng ta xem đức Phật như là vị thần thì chúng ta sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi Ngài xác định trí tuệ của Ngài là: Thấy những gì cần thấy, nghe những gì cần nghe, cảm giác những gì cần cảm giác và nhận thức (tìm hiểu) những gì cần nhận thức. Điều đó có nghĩa là Ngài không cần thấy, nghe, cảm giác và hiểu biết những gì không cần thấy, nghe, cảm giác và hiểu biết. Đồng thời những gì Ngài đã thấy, nghe, cảm giác và nhận thức một cách rõ ràng, không mù mờ, không tưởng tượng về chúng. Nhận thức đó trong “Kinh Tất Cả Lậu Hoặc” (Sabbasavasuttam) trong “Kinh Trung Bộ” gọi là ‘Như lý tác ý’, ‘chánh tư duy’ hay trong “Kinh Kim Cang Bát Nhã” gọi là ‘không điên đảo mộng tưởng’ cũng chính là ý nghĩa trong kinh vừa dẫn gọi là ‘không tưởng tượng’ (na ma��ati) . Chính nhận thức đó, nó là vũ khí ngăn chận sự sinh khởi phiền não, tạo thành sự an lạc và giải thoát. Điều đó không đồng nghĩa, đức Phật là vị có khả năng cái gì cũng biết. Giả như nếu có người có khả năng cái gì cũng biết, chưa chắc gì họ đã chấm dứt khổ đau, như sự hiểu biết của người thế gian, vì sự hiểu biết đó, không có chức năng làm giảm lòng tham lam, sân hận mà ngược lại còn làm tăng thêm tham và sân, cho nên nó không làm chấm dứt đau khổ. Sự hiểu biết của đức Phật thì không như vậy, nó là sự hiểu biết được xây dựng trên lòng không tham, không sân và không si, do vậy khổ đau phiền não không có cơ hội xuất hiện.

Một điểm nữa mà chúng ta cũng cần tìm hiểu ở đây là, cái gì được gọi là ‘cần’ và ‘không cần’ ? Liên quan câu trả lời này, trong kinh A hàm và NikŒya có nhiều kinh đề cập đến vấn đề này, qua nhiều lãnh vực khác nhau. Trước nhất “Kinh Tiễn Dụ” trong “Kinh Trung A Hàm” đức Phật cho rằng những vấn đề triết học siêu hình là những vấn đề không liên quan đến giác ngộ giải thoát, cho nên chính Ngài đã từ chối không bàn luận những vấn đề này, Ngài giải thích lý do như sau:

“‘Thế giới hữu thường’, Ta không xác quyết điều này. Vì điều này không tương ưng với cứu cánh, không tương ưng với pháp, không phải căn bản phạm hạnh, không đưa đến trí, không đưa đến giác, không dẫn đến Niết-bàn. Cho nên Ta không xác quyết điều này. Cũng vậy, ‘Thế giới vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Ta không xác quyết điều này. Vì lý do gì mà Ta không xác quyết những điều này? Vì những điều này không tương ưng với cứu cánh, không tương ưng với pháp, không phải là căn bản phạm hạnh, không đưa đến trí, không đưa đến giác, không dẫn đến Niết-bàn. Cho nên Ta không xác quyết những điều này.

“Những pháp nào được Ta xác quyết nói đến? ‘Đây là khổ’, Ta xác quyết nói ‘Đây là khổ’, ‘Khổ tập, Khổ diệt, Khổ diệt đạo tích’ Ta xác quyết nói. Vì những lý do gì mà Ta xác quyết nói những điều này ? Vì những điều này tương ưng với cứu cánh, tương ưng với pháp, là căn bản phạm hạnh, đưa đến trí, đưa đến giác, dẫn đến Niết-bàn, cho nên Ta xác quyết nói những điều này.”[14]

Đây là những vấn đề mang tính triết học siêu hình mà các nhà tôn giáo triết học đương thời ở Ấn Độ thường cùng nhau tranh luận. Lý thuyết duyên khởi, vô thường, vô ngã, nhân quả, nghiệp báo của đức Phật, có nội dung ý nghĩa không đồng tình những gì mà các nhà tôn giáo triết học truyền thống và phi truyền thống chủ trương. Đây chính là lý do tại sao mà các nhà tôn giáo triết học đương thời luôn luôn tra hỏi đức Phật về những vấn đề này, nhưng đức Phật luôn giữ thái độ im lặng không trả lời. Dần dần về sau những vấn đề này, nó không còn là nghi vấn của những người ngoại đạo mà xuất hiện trong Tăng già, một vị tỷ kheo tên là Man Đồng tử đã đặt điều kiện với Thế Tôn, nếu như Thế Tôn không trả lời thì Tỷ kheo ấy sẽ hoàn tục. Dù vậy, đức Phật cũng không trả lời, nhưng Ngài lý giải tại sao Ngài không trả lời, vì những vấn này dù có biết hay không biết, nó cũng không liên quan đến mục đích giác ngộ giải thoát của người xuất gia, không giúp gì cho việc đoạn tận khổ đau, chứng ngộ Niết bàn, cho nên đức Phật không trả lời. Những gì cần giảng dạy thì Ngài đã giảng dạy, vì nó là những phương pháp đoạn trừ khổ đau cho con người. Qua ý nghĩa đoạn kinh này, nó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, khái niệm trí tuệ hay giác ngộ trong đạo Phật không mang ý nghĩa cái gì cũng hiểu và cái gì cũng biết, mà mang ý nghĩa là sự hiểu biết hướng đến sự chấm dứt khổ đau, tức là diệt trừ tham, sân và si.

Ngoài việc không bàn luận phạm vi triết học siêu hình, đức Phật còn khuyên các vị Tỷ kheo không nên tìm hiểu bàn luận, những vấn đề không liên quan đến giác ngộ giải thoát, như là vấn đề chính trị, thương mại, tôi tớ, đàn ông đàn bà…, như trong “Kinh Tạp A Hàm” như sau:

“Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo tụ tập nơi nhà ăn, bàn luận những đề tài như vầy: hoặc là bàn luận việc vua, việc giặc cướp, việc đấu tranh, việc tiền bạc, việc y phục, việc ăn uống, việc nam nữ, việc ngôn ngữ thế gian, việc sự nghiệp, việc trong biển cả. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đang ở trong thiền định, bằng thiên nhĩ, nghe tiếng bàn luận của các Tỳ-kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến nhà ăn, trải tọa cụ mà ngồi trước đại chúng, rồi bảo các Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, các ông tụ tập để bàn luận việc gì?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, chúng con tụ tập ở đây bàn nói về việc vua…” Nói đầy đủ như trên.
Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các ông chớ bàn luận những đề tài như vầy: Bàn luận những việc vua… cho đến..., không hướng đến Niết-bàn. Nếu có bàn luận thì nên nói về Khổ Thánh đế, Khổ tập Thánh đế, Khổ diệt Thánh đế, Khổ diệt đạo tích Thánh đế. Vì sao? Vì bốn Thánh đế này có lợi ích cho nghĩa, lợi ích cho pháp, lợi ích cho phạm hạnh, là chánh trí, chánh giác, chánh hướng Niết-bàn.”[15]

Nội dung đoạn kinh vừa trích dẫn, đức Phật cấm các vị Tỷ kheo bàn luận hay tìm hiểu những vấn đề như: Việc vua, việc giặc cướp, việc đấu tranh, việc tiền bạc, việc y phục, việc ăn uống, việc nam nữ, việc ngôn ngữ thế gian, việc sự nghiệp, việc trong biển cả. Nói chung những vấn đề gì không liên hệ đến giác ngộ giải thoát, những việc đó tăng thêm sầu bi khổ ưu não, tăng thêm lòng tham lam, sân hận và ngu si, việc ấy Thế Tôn ngăn cấm các Tỷ kheo không bàn luận suy tư, ngay cả Thế Tôn cũng không tìm hiểu suy tư vào những việc vô ích đó. Những gì không thuộc phạm vi suy tư tìm hiểu của các Tỷ kheo hay đức Phật, lẽ tất nhiên, Ngài không biết, không biết những việc vô ích này, điều đó không đồng nghĩa không có khả năng hiểu biết. Ví dụ như bạn không biết uống rượu, không đồng nghĩa bạn không có khả năng uống rượu, tôi không muốn nhìn cảnh xấu xa, không đồng nghĩa tôi không có khả năng thấy. Theo quan điểm đức Phật, vai trò trí tuệ là để giúp hành giả thấy biết đúng, để giái quyết công việc hợp tình hợp lý, không phải mọi việc đều biết.

3.     Kết luận
Phật giáo là một Tôn giáo được sinh ra từ nền văn hóa tư tưởng của Ấn Độ, nhưng nếu nói một cách nghiêm túc tư tưởng Phật giáo, nhất là tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy không chịu ảnh hưởng tư tưởng mang sắc thái thần quyền, thần thoại của các tôn giáo Ấn Độ, ngược lại phản đối tư tưởng này. 

Bất cứ tôn giáo nào cũng đề cao vị sáng lập tôn giáo đó, qua những mẫu chuyện thần thoại, nhưng riêng đức Phật không chấp nhận việc đề cao không thật, tự xác nhận Ngài vốn là một con người, từ vị trí con người mà thành Phật. Sự khác biệt giữa Ngài và chúng sinh có trí tuệ hay không có trí tuệ. Khái niệm trí tuệ mà Ngài định nghĩa là sự diệt trừ lòng tham lam, sân hận và ngu si, không mang ý nghĩa cái gì cũng thấy, cái gì cũng biết. Bất cứ sự thấy biết dù cao siêu đến đâu, nhưng nó làm tăng thêm phiền não, sầu muộn thì nó không phải là trí tuệ trong đạo Phật. Đây chính là sự dị biệt giữa trí tuệ trong đạo Phật và tri thức ở thế gian.

Sự xác định Ngài là một con người từ vị trí con người mà thành Phật, mang ý nghĩa khá sâu sắc. Điều đó nói lên những điều Ngài chứng ngộ và giáo pháp được Ngài nói ra đều là những vấn đề của con người, có liên quan đến con người, và giải quyết những khổ đau của con người, không phải những lý thuyết mơ hồ ảo tưởng. 

Tuy nhiên, có một vấn đề khá quan trọng là, những gì được Ngài giảng dạy đó, nó có bối cảnh cụ thể và đối tượng cụ thể, muốn hiểu nó cần phải trả nó về bối cảnh lịch sử của nó, không thể lấy những vấn đề hôm nay lý giải những vấn đề quá khứ.

Qua nội dung và ý nghĩa vừa trình bày, nó là quan điểm được căn cứ từ các Kinh A hàm và Nikaya. Các Kinh này được cho là kinh điển của Tiểu thừa, cụ thể là Hóa Địa bộ (Mahi§Œsaka), Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (SarvŒstivŒdŒ)… Như vậy, trong “Đại Trí Độ Luận“ mà Long Thọ giải thích lý do tại sao đức Phật nói “Kinh Bát Nhã“ vì có người hoài nghi Phật không phải là bậc Nhất Thiết Trí. Người đó là ai ? câu trả lời chính là các nhà Hữu Bộ, Hóa Địa Bộ... Từ ý nghĩa này, nó gợi ý cho chúng ta hiểu thêm rằng nội dung và ý nghĩa tư tưởng trong kinh điển Đại thừa có mối quan hệ mật thiết với tư tưởng của các Bộ phái. Như vậy, muốn nắm rõ tư tưởng của Phật giáo Đại thừa không thể không hiểu hệ thống tư tưởng của Phật giáo Bộ phái.
 Thích Hạnh Bình
Taipei ngày 30 tháng 4 năm 2008


KINH SÁCH THAM KHẢO

HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 2, Viện NCPHVN ấn hành, 2000.
-  HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 4, Viện NCPHVN ấn hành, 1996.
-  Thích Đức Thắng dịch, “Kinh Tạp A Hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 5,6, Hội Văn Hóa Linh Sơn Giáo Dục Đài Bắc xuất bản, 2000. 
-  Thích Tuệ Sĩ dịch, “Kinh Trung A Hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 4, Hội Văn Hóa Linh Sơn Giáo Dục Đài Bắc xuất bản, 2000. 
-  Thích Tuệ Sĩ dịch, “Kinh Trường A Hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 1, Hội Văn Hóa Linh Sơn Giáo Dục Đài Bắc xuất bản, 2000.
-  Thích Thiện Siêu dịch, “Luận Đại Trí Độ” tập I, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 1997.

--------------------------------------------------------------------------------
[1] Thích Thiện Siêu dịch, “Luận Đại Trí Độ” tập I, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 1997, trang 16.
[2] Thích Tuệ Sĩ dịch, “Kinh Trung A Hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 4, Hội Văn Hóa Linh Sơn Giáo Dục Đài Bắc xuất bản, 2000, trang 839.
[3] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 4, Viện NCPHVN ấn hành, 1996, trang 182.
[4] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 2, Viện NCPHVN ấn hành, 2000, trang 308-309.
[5] Trích dịch từ “Kinh Tăng Nhất A Hàm”(增壹阿含經) (CBETA, T02, no. 125, p. 705, c20-21).
[6] TT. Tuệ Sĩ dịch, “Kinh Trung A Hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 3, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn đài Bắc xuất bản, 2000. trang 742.
[7] Thích Tuệ Sĩ dịch, “Kinh Trường A Hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 1, Hội Văn Hóa Linh Sơn Giáo Dục Đài Bắc xuất bản, 2000, trang 356.
[8] TT. Tuệ sĩ dịch, “Kinh Trung A Hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 4, Hội Văn Hóa Linh Sơn Giáo Dục Đài Bắc xuất bản, 2000, trang 822.
[9] Sđd trang 823.
[10] ‘như lý tác ý’ có nghĩa là đạo lý của nó như thế nào thì suy nghĩ như thế ấy, đồng nghĩa với từ chánh kiến.
[11] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành, 1996, trang 595.
[12] TT. Tuệ sĩ dịch, “Kinh Trung A hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 4, Hội Văn hóa Giáo dục Linh sơn Đài Bắc xuất bản, 2000, trang 620-621.
[13] Sđd, trang 595-596.
[14] TT. Tuệ Sĩ dịch, “Kinh Trung A Hàm” “Kinh Trung A Hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 4, Hội Văn Hóa Linh Sơn Giáo Dục Đài Bắc xuất bản, 2000, trang 944.
[15] Thích Đức Thắng dịch, “Kinh Tạp A Hàm” “Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh” tập 6, Hội Văn Hóa Linh Sơn Giáo Dục Đài Bắc xuất bản, 2000, trang 7.

Đức Phật là bậc Nhất thiết trí

16/06/2009 19:17 (GMT+7) 
(Báo Giác Ngộ online)

Đức Phật có nhiều danh xưng khác nhau như: Như Lai, Thiện thệ, Chánh đẳng giác, Thế tôn, Đạo sư, bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến, bậc Toàn giác, v.v... Bậc Nhất thiết trí là danh xưng của chư Phật không phải là danh xưng của Đức Phật Thích Ca.
 
Vị nào đạt được Phật quả, vị đó có Nhất thiết trí. Nói cách khác, Phật là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết trí là Phật. Bậc Nhất thiết trí là bậc có trí tuệ hiểu biết tất cả (nội dung cụ thể sẽ được trình bày ở phần sau), được dịch từ từ sabbaviù, sabbavidù (Pàli) hay từ sarvajna(1) (Sanskrit). Từ sabbannù (hay sarvajna) có khi được dịch là bậc Nhất thiết trí, bậc Toàn tri, bậc Toàn giác(2)... Để thống nhất khái niệm trong bài viết, người viết sẽ sử dụng từ ngữ Nhất thiết trí. Người đệ tử Phật, dù xuất gia hay tại gia, nếu có học Phật pháp thì đều biết rõ Đức Phật là bậc Nhất thiết trí. Vì điều đó được ghi rất rõ, không những trong kinh điển Phật giáo Đại thừa, mà ngay cả trong kinh điển A Hàm(3).
nhatthietri-1.gif
Bài viết này có hai phần: Phần I: Trích dẫn. Ở đây, người viết chỉ trích dẫn các đoạn trong kinh điển A-hàm nói về Nhất thiết trí của Đức Phật, không lý luận vì tự thân những ghi chép của kinh điển A-hàm đã nói rất rõ (không cần nhờ tới lý luận hay hý luận) rằng ‘Đức Phật là bậc Nhất thiết trí’; Phần II: Nội dung của Nhất thiết trí. Trước khi đi vào nội dung chính, người viết thấy cần khẳng định một điều: Kinh luật Phật giáo (từ kinh điển A Hàm cho tới kinh điển Đại thừa Phật giáo) đều ghi rõ: “Đức Phật là bậc Nhất thiết trí”, Nhất thiết trí đó chính là Ba minh (Tam minh) và Nhất thiết trí của Đức Phật không phải là Nhất thiết trí của ngoại đạo.



Trích dẫn
A) Kinh luật Pàli
1. Kinh Trung bộ, kinh Thánh cầu số 26
Sau khi thành đạo, Đức Phật đi tới vườn Lộc uyển để thuyết pháp cho năm vị Tỳ kheo cùng tu với Ngài trước kia. Trên đường đi, một người ngoại đạo tên Upaka đã hỏi tại sao Đức Phật xuất gia, ai là bậc đạo sư của Ngài, v.v... Đức Phật trả lời:
"- Ta, bậc Thắng tất cả,
Ta, bậc Nhất thiết trí (sabbavidù) ... "(4).
 

2. Luật tạng Pàli
Nội dung giống như đoạn vừa được trích dẫn ở trên: Đức Phật trả lời câu hỏi của người ngoại đạo Upaka như sau:
"- Ta, bậc Thắng tất cả,
Ta, bậc Nhất thiết trí (sabbavidù)..."(5)


3. Kinh Bản sanh quyển I, phần II: Nhân duyên gần (avidùre-nidàna).
Phần Nhân duyên gần này ghi lại lịch sử của Đức Phật, bắt đầu từ khi Ngài còn ở cung trời Đâu suất cho tới khi Ngài thành đạo dưới cội cây Bồ đề. Đoạn trích dẫn sau đây diễn tả tiến trình Ngài thành đạo dưới cội cây Bồ đề.


“Khi trời chưa tối, bậc Đại nhân hàng phục ma binh... Canh đầu(6)  Ngài chứng được túc trụ trí, canh hai Ngài đạt được thiên nhãn thanh tịnh, canh cuối Ngài đạt được trí duyên sanh... Khi ánh bình minh xuất hiện, mười ngàn thế giới phát ra âm thanh vi tế, bậc Đại nhân đạt được trí chân thật của bậc Nhất thiết trí (sabbannùta)...


Như vậy, chúng ta phải hiểu: câu chuyện bắt đầu từ cung trời Đâu suất cho tới khi Bồ tát đạt được trí chân thật của bậc Nhất thiết trí được gọi là nhân duyên gần”(7)


4. Kinh Bản sanh quyển IV, chuyện số 479: Tiền thân Kalinga-Bodhi
Tóm tắt đoạn có liên quan tới chủ đề: Sau khi thống trị thiên hạ, vua Kalinga cưỡi voi chúa, bay trên không trung về thăm cố hương. Đang bay, bỗng nhiên voi chúa dừng lại. Nhà vua dùng roi thúc giục nhiều lần, voi chúa vẫn không di động. Bấy giờ, tế sư Bhàradvàja (tiền thân của Đức Phật) liền xuống tìm hiểu. Sau khi tìm hiểu xong, vị tế sư bay lên không trung tâu với vua rằng khu vực này có cây Bồ đề là nơi chư Phật đắc đạo và khuyên nhà vua nên xuống đảnh lễ cây Bồ đề. Khi xuống tới nơi, thấy khung cảnh linh thiêng, nhà vua khen ngợi tế sư chính là bậc Nhất thiết trí nhưng tế sư không dám nhận những lời khen thái quá đó và trả lời rằng chư Phật mới xứng đáng với những lời khen như thế.


Lúc bấy giờ, Đức Phật dùng bài kệ giải thích việc này:
“Không nhận những lời khen thái quá đó,


Bà la môn Bhàradvàja tâu với vua rằng:
Thưa đại vương, thần chỉ là một người đoán tướng số,
Chư Phật mới là những bậc Nhất thiết trí (sabbannù)”(8).


5. Mi-tiên vấn đáp(9)
Trong Mi-tiên vấn đáp, có hai lần Vua Mi-lan-đà(10) hỏi ngài Na-tiên(11): “Thưa ngài Na-tiên, Đức Phật có phải là bậc Nhất thiết trí (sabbannù), bậc Nhất thiết kiến không?”. Cả hai lần, ngài Na-tiên đều trả lời: “Thưa đại vương, Đức Phật là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến”(12). Ngoài ra, còn có nhiều lần vua Mi-lan-đà nghi ngờ và gặng hỏi ngài Na-tiên về Nhất thiết trí của Đức Phật. Dưới đây chỉ ghi lại đại ý của hai lần.


Có một lần, vua hỏi rằng nếu Đức Phật là bậc Nhất thiết trí, tại sao Ngài không chế ra giới cấm cùng một lúc mà phải đợi có người phạm giới rồi mới chế. Ngài Na-tiên trả lời: Đức Phật cũng như thầy thuốc, biết tất cả các phương thuốc trị bệnh nhưng phải chờ khi nào có người bị bệnh và tùy theo căn bệnh của từng người mà cho thuốc. Sau đó, ngài Na-tiên khẳng định Đức Phật là bậc Nhất thiết trí(13).


Chỗ khác, vua Mi-lan-đà hỏi ngài Na-tiên rằng nếu Đức Phật biết Đề-bà-đạt-đa sau này sẽ phá hòa hợp Tăng và do tội phá hòa hợp Tăng này sẽ thọ nghiệp trong một kiếp mà vẫn cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia thì Đức Phật không phải là bậc Đại từ bi; còn nếu như không biết Đề-ba-đạt-đa sẽ phá hòa hợp Tăng mà cho xuất gia thì Đức Phật không phải là bậc Nhất thiết trí. Ngài Na-tiên trả lời rằng vì Đức Phật là bậc Nhất thiết trí nên biết rất rõ Đề-bà-đạt-đa sẽ phá hòa hợp Tăng, và vì Ngài là bậc Đại từ bi nên mới cho Đề-ba-đạt-đa xuất gia. Nếu không xuất gia, ở tại gia, Đề-ba-đạt-đa sẽ còn tạo nghiệp nhiều hơn và sẽ thọ nghiệp trong trăm ngàn kiếp chứ không phải chỉ có một kiếp(14).

nhatthietri-2.gif

B) Kinh luật Hán văn
1. Trường A Hàm kinh, Kinh 1: kinh Đại bản
Nội dung kinh này: Đức Phật nói về chư Phật quá khứ. Có một đoạn nói về Đức Phật Tỳ-bà-thi như sau:
“Đấng lưỡng túc khi sinh,
Hai suối tự tuôn ra,
Để cúng Bồ-tát dùng;
Biến nhãn tắm sạch sẽ.
Hai suối tự tuôn ra,
Nước suối rất trong sạch;
Một ấm, một lạnh mát,
Tắm đấng Nhất thiết trí”(15).


2. Trung A Hàm kinh, kinh 62: kinh Tần-Tỳ-sa-la vương nghinh Phật
Bấy giờ, trong chúng hội của Đức Phật, dân chúng nước Ma-kiệt-đà cho rằng ngài Uất-tỳ-la Ca-diếp là bậc đại tôn sư, là A-la-hán và tự hỏi: Không biết Đức Phật theo ngài Uất-tỳ-la Ca-diếp học phạm hạnh hay ngài Uất-tỳ-la Ca-diếp theo Đức Phật học phạm hạnh. Biết được tâm niệm của dân chúng nước Ma-kiệt-đà, Đức Phật dạy ngài Ca-diếp (lúc bấy giờ đang ngồi trong chúng hội) hãy hiện như ý túc cho chúng hội được vui lòng và tin tưởng. Vâng lời dạy của Đức Phật, ngài Ca-diếp liền biến mất khỏi chỗ đang ngồi, bay lên hư không, trong cùng một thân vừa phát ra lửa, vừa phun ra nước. Sau khi thể hiện như ý túc, ngài Ca-diếp đảnh lễ chân Đức Phật và thưa rằng:


“Bạch Thế Tôn, Phật là thầy của con. Con là đệ tử của Phật. Phật thành tựu Nhất thiết trí. Con không có Nhất thiết trí”.
Đức Thế Tôn bảo:
“Thật vậy, Ca-diếp, thật vậy, Ca-diếp! Ta có Nhất thiết trí. Ông không có Nhất thiết trí”(16).


3. Tạp A Hàm kinh, kinh 604: A-dục vương nhân duyên
Kinh ghi lại ý nghĩa cây Bồ-đề như sau:
“Cây Như Lai y cứ
Gọi là cây Bồ-đề
Tại đó thành Chánh giác
Đầy đủ Nhất thiết trí”(17).


4. Tạp A Hàm kinh, kinh 641: A-dục vương thí bán A-ma-lặc quả nhân duyên kinh
Nội dung kinh này nói việc vua A-dục thành tâm đem tất cả của báu cúng dường Tam bảo, đặc biệt là chùa Kê Tước do nhà vua xây dựng thêm. Trước khi chết, vua chắp tay làm lễ cảm niệm ân đức chư Phật rồi làm bài kệ:


“Nay, Diêm-phù-đề này,
Nhiều trân bảo trang sức;
Cúng cho ruộng phước lành,
Tự nhiên được quả báo.
Đem công đức bố thí này,
Chẳng cầu Thiên đế thích;
Phạm vương cùng nhân chủ,
Các diệu lạc thế giới.
Những quả báo như vậy,
Tôi đều không thụ dụng,
Nhờ công đức thí này,
Mà mau thành Phật đạo.
Nơi tôn ngưỡng cho đời,
Thành được Nhất thiết trí;
Làm bạn lành thế gian,
Là Đạo sư bậc nhất”(18).  


5. Tạp A Hàm kinh, kinh 1207: Thi-lợi-sa-giá-la
Ma Ba-tuần muốn gây chướng nạn cho Tỳ kheo ni Thi-lợi-sa-giá-la nên hóa hiện thành thanh niên khôi ngô tuấn tú, đến chỗ của vị Tỳ kheo ni đó và hỏi rằng “Cô thích đạo giáo nào?”. Tỳ kheo ni Thi-lợi-sa-giá-la dùng kệ trả lời:


“Các đạo ngoài pháp này,
Bị các kiến trói buộc.
Bị các kiến trói rồi,
Thường bị ma khống chế.
Nếu sanh nhà họ Thích,
Không ai bằng Đại sư;
Hay dẹp các ma oán,
Không bị chúng chế phục.
Thanh tịnh thoát tất cả,
Đạo nhãn quan sát khắp;
Trí Nhất thiết ắt biết...”(19).


6. Tăng nhất A-hàm kinh, phẩm Cao tràng 24, kinh số 5
Sau khi thành đạo, Đức Phật trong bảy ngày nhìn chăm chú vào cây đại thọ rồi nói bài kệ này:


“Chỗ Ta ngồi nay đây
Trải qua khổ sanh tử.
Nắm chặt búa trí huệ
Chặt đứt rễ gai nhọn.
Thiên vương đến nơi đây,
Cùng các ma, quyến thuộc.
Hàng phục bằng phương tiện,
Khiến đội mũ giải thoát.
Nay ở dưới cây này,
Ngồi trên tòa kim cương,
Chứng đắc tuệ vô ngại,
Thành tựu Nhất thiết trí...”(20).


7. Ngũ phần luật
Sau khi thành đạo, Đức Phật đi tới vườn Lộc Uyển để thuyết pháp cho năm vị Tỳ kheo cùng tu với Ngài trước kia. Trên đường đi, một người ngoại đạo tên Ưu-ba-kỳ-bà đã hỏi Đức Phật tu theo đạo nào, ai là bậc đạo sư của Ngài, v.v... Đức Phật trả lời như sau:
"Nhất thiết trí trên hết,
Không phiền, không ô nhiễm,
Ta tu không nhờ thầy
Tự nhiên đạt thánh đạo..."(21)


8. Ma-ha tăng kỳ luật
Ma-ha tăng kỳ luật định nghĩa Phật như sau: “Phật (Thế Tôn) là bậc Nhất thiết trí, bậc Nhất thiết kiến...”(22).


9. Tứ phần luật
Sau khi thành đạo, Đức Phật đi tới vườn Lộc uyển để thuyết pháp cho năm vị Tỳ kheo cùng tu với Ngài trước kia. Trên đường đi, một người ngoại đạo tên Ưu-đà-da đã hỏi Đức Phật tu theo đạo nào, ai là bậc đạo sư của ngài v.v... Đức Phật trả lời như sau:


"Nhất thiết trí trên hết..."(23)  


10. Thập tụng luật
Ngài A-nan tán thán công đức của Đức Phật như sau:
“ Đức Phật có niệm, định, trí tuệ, giải thoát tri kiến, đại từ, đại bi, Nhất thiết trí... như thế”(24)


11. Căn-bản-thuyết-nhất-nhiết-hữu-bộ luật (25)
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Đức Thế Tôn là bậc Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến...”(26).


Qua các đoạn văn tiêu biểu (dĩ nhiên còn nhiều) vừa được trích dẫn ở trên, chúng ta có thể kết luận: Kinh điển A Hàm khẳng định Đức Phật là bậc Nhất thiết trí. Về mặt bộ phái: Thượng-tọa bộ, Pháp tạng bộ, Hóa-địa bộ, Thuyết-nhất-thiết-hữu bộ, Căn bản Thuyết-nhất-thiết-hữu bộ, Đại chúng bộ, tuy bộ phái, truyền thừa khác nhau nhưng đều ghi nhận như nhau: “Đức Phật là bậc Nhất thiết trí”. 


Trên đây đã trích dẫn các đoạn văn khẳng định Đức Phật là bậc Nhất thiết trí trong kinh điển A Hàm. Tiếp theo, người viết sẽ trình bày nội dung Nhất thiết trí của Đức Phật.



Nội dung của Nhất thiết trí
Nội dung của Nhất thiết trí được Đức Phật trình bày rất rõ trong bài kinh số 71 của kinh Trung Bô với tựa đề Kinh dạy Vacchagotta về Tam minh. Nhìn tựa đề: “Kinh dạy Vacchagotta về Tam minh”, chúng ta biết ngay nội dung kinh này Đức Phật dạy về Ba minh (Tam minh) chứ không phải phủ định Nhất thiết trí. Tôi sẽ trích dẫn hai phần chính: Nguyên nhân đưa đến lời dạy của Đức Phật và lời dạy chính của Đức Phật.

Phần một: Du sĩ ngoại đạo tên là Vaccha đã hỏi Đức Phật như sau: 


“- Bạch Thế Tôn, con nghe như sau: 'Sa-môn Gotama là bậc Nhứt thiết trí, là bậc Nhứt thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: "Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục'. Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: 'Sa-môn Gotama là bậc Nhứt thiết trí, là bậc Nhứt thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại liên tục'. Bạch Thế Tôn, những vị ấy nói về Thế Tôn có đúng với điều đã được nói, những vị ấy không vu khống Thế Tôn với điều không thực, nhưng đã giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và không một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách?”(27)


Trước hết, chúng ta phải biết rằng khái niệm "Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục" là nội dung Nhất thiết trí của Nigantha Nataputta (Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử), Tổ sư của Kỳ-na giáo(28). Như vậy, câu hỏi của Vaccha không phải là dạng câu hỏi có-không, không phải câu hỏi “Đức Phật có phải là bậc Nhất thiết trí không?”. Không phải. Câu hỏi của Vaccha thuộc dạng tìm hiểu nội dung Nhất thiết trí của Đức Phật. Nói cách khác, Vaccha muốn hỏi: “Nhất thiết trí của Đức Phật có phải là Nhất thiết trí của Nigantha Nataputta có nghĩa là ‘Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục’ không? Phải hiểu như thế. Chính để trả lời câu hỏi được hiểu theo dạng thức thứ hai này nên Đức Phật mới trả lời câu kế tiếp về nội dung Ba minh.
Phần hai: Câu trả lời của Đức Phật: 


“- Này Vaccha, những ai nói như sau: 'Sa-môn Gotama là bậc Nhứt thiết trí, là bậc Nhứt thiết kiến. Ngài tự cho là có tri kiến hoàn toàn: 'Khi Ta đi, khi Ta đứng, khi Ta ngủ và khi Ta thức, tri kiến luôn luôn tồn tại, liên tục'. Thì đấy là họ nói về Ta không đúng với điều đã được nói, họ đã vu khống Ta với điều không thực, hư ngụy”. 


Câu trả lời này của Đức Phật phải được hiểu rằng “Ai nói rằng Nhất thiết trí của Như Lai là 'Khi Ta đi,...liên tục', người đó không nói đúng sự thật. Trong đây không có một lời phủ định nào hết. Nếu như Đức Phật phủ định Nhất thiết trí thì Ngài chỉ cần trả lời “Như Lai không phải là bậc Nhất thiết trí”, và nội dung kinh chấm dứt ở đây. Không phải thế. Vaccha đã đem nội dung Nhất thiết trí của ngoại đạo gán ghép cho Nhất thiết trí của Ngài nên ngài phủ định sự gán ghép đó và Ngài trình bày rõ nội dung Nhất thiết trí của Ngài ở phần kế tiếp.
Vaccha lại hỏi: 


“- Phải giải thích như thế nào, bạch Thế Tôn, chúng con mới nói về Thế Tôn đúng với điều đã được nói, chúng con không vu khống Thế Tôn với điều không thực, chúng con mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp; và không một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách?”.
 Đức Phật lại trả lời. Đây là nội dung chính của kinh.


“- Ông phải giải thích: 'Sa-môn Gotama là bậc có Ba minh (tevijja)', thì này Vaccha, Ông mới là người nói về Thế Tôn đúng với điều đã được nói, mới không vu khống Thế Tôn với điều không thực, mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và mới không có một đồng pháp hành nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách. 


Này Vaccha, khi nào Ta muốn, Ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp. Ta nhớ rằng: 'Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, Ta được sanh ra ở đây'. Như vậy Ta sẽ nhớ đến những đời sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các chi tiết. 


Này Vaccha, nếu Ta muốn, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Ta nghĩ rằng: 'Thật sự những vị chúng sanh này thành tựu những ác hạnh về thân, thành tựu những ác hạnh về lời nói, thành tựu những ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những vị chúng sanh này thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên đời này'. Như vậy, Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
Này Vaccha, với sự đoạn diệt các lậu hoặc, Ta ngay trong hiện tại, tự mình với thượng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. 


Và với sự giải thích: 'Sa-môn Gotama là bậc có Ba minh, 'này Vaccha, người ấy mới là người nói về Thế Tôn đúng với điều đã được nói, mới không vu khống Thế Tôn với điều không thực, mới giải thích về Thế Tôn đúng pháp và tùy pháp, và mới không có một vị đồng hành pháp nào nói lời đúng pháp có thể lấy cớ để quở trách”(29).  


Như vậy, nội dung toàn bộ bài kinh vừa được trích dẫn ở trên không phải phủ định Nhất thiết trí của Đức Phật mà là giải thích Nhất thiết trí của Đức Phật là Ba minh. Hiểu như thế mới phù hợp với tất cả những lời dạy trong kinh điển A Hàm mà người viết đã trích dẫn ở phần I. Và hiểu như thế mới phù hợp với lời dạy của Đức Phật trong kinh Bản sanh quyển I, phần II: Nhân duyên gần (avidùre-nidàna) (xin xem phần trước, I.1.3. Kinh Bản sanh quyển I, phần II: Nhân duyên gần). Hiểu như thế mới thấy được sự phát triển có tính truyền thống, liên tục từ Phật giáo Nguyên thủy tới Phật giáo Đại thừa. Nói cách khác, nhận định ‘Đức Phật là bậc Nhất thiết trí’ không phải là tư tưởng đặc thù của kinh điển Đại thừa Phật giáo mà đã có từ thời kinh điển A Hàm. Và khi nghiên cứu kinh điển A Hàm, các nhà nghiên cứu Phật học cũng có cùng một nhận định như nhau: ‘Đức Phật là bậc Nhất thiết trí’(30)


Ngược lại, nếu cho rằng nội dung “Kinh dạy Vacchagotta về Tam minh” là Đức Phật phủ định Nhất thiết trí, thì giải thích như thế nào về sự khẳng định ‘Đức Phật là bậc Nhất thiết trí’ trong kinh điển A Hàm như người viết trích dẫn một số đoạn tiêu biểu ở phần I và giải thích như thế nào những ghi chép của kinh điển Đại thừa Phật giáo: ‘Đức Phật là bậc Nhất thiết trí’? 

Mùa Phật đản 2632, Phương ngoại am.
Giác Dũng  

-----------------------------------------------------------
(1) Trong Hán tạng, từ sarvajna có khi được phiên âm là Tát văn nhã (Trung A Hàm kinh, “Đại chánh Tân tu Đại tạng kinh” (sẽ viết tắt là Đại) 2, tr.753c8), Tát văn nhiên (Quang tán kinh, Đại 8, tr.176b17), Tát bà nhã (Phật bản hạnh tập kinh, Đại 3, tr.721c13), Tát phạt nhã (Bảo tích kinh, Đại 11, tr.239c12)... (2) Trong Wakahara (1985, tr.52-78), từ sarvajna là được dịch là bậc Toàn tri (Wakahara (1985, tr.52-78): Wakahara Yusho. Trong Mi-Tiên vấn đáp, từ sabbannù được dịch là bậc Toàn giác. Xin xem http://www.thuvienhoasen.org/mitienvandap-03.htm. (3) Trong bài viết này, từ ngữ "Kinh điển A Hàm" bao gồm: năm bộ Nikàya, bốn bộ A Hàm và sáu bộ quảng luật. Năm bộ Nikàya: kinh Trường bộ, kinh Trung bộ, kinh Tương ưng, kinh Tăng chi và kinh Tiểu bô. Bốn bộ A Hàm: kinh Trường A Hàm, kinh Trung A Hàm, kinh Tăng Nhất A Hàm và kinh Tạp A Hàm. Sáu bộ quảng luật: Luật tạng Pàli (Vinaya Pitaka) thuộc tạng Pàli; Tứ phần luật, Ngũ phần luật, Thập tụng luật, Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ luật và Ma ha tăng kỳ luật thuộc tạng Hán văn. (4) Majjhima-Nikàya vol. I, PTS (Pali Text Society), London, 1979, tr.171. Bản dịch Việt văn của HT.Thích Minh Châu, đăng trên http://www.thuvienhoasen.org/u-trung26.htm. (5) Vinaya Pitka Vol. I (Mahàvagga ), PTS, London, 1964, tr.8. Bản dịch tiếng Việt của Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên, đoạn này được dịch là: “Ta vượt trên tất cả, hiểu biết được toàn bộ...” Xin tham khảo: http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-luat-daipham/dp-01a.htm (6) Theo lịch pháp Ấn Độ, một ngày một đêm được chia thành 6 thời: ngày có 3 thời, đêm có 3 canh. Đại 54, tr.1092b24. (7) Jàtaka vol.I, PTS, London, 1962, tr.75-77. (8) Jàtaka vol.IV, PTS, London, 1963, tr.235. (9) Mi-Tiên vấn đáp, tựa đề chữ Pàli là Milindapanho, ghi lại nội dung vấn đáp về Đạo giữa vua Mi-lan-đà và ngài Na-tiên, được Phật giáo Tích Lan kết tập vào năm bộ Nikàya. Mi-Tiên vấn đáp có hai bản dịch bằng chữ Hán, đều mang tựa đề giống nhau là Na-tiên Tỳ kheo kinh mang số hiệu 1670A và 1670B, Đại 32. Về mặt số lượng, cả hai bản dịch Hán văn đều chỉ bằng một nửa của bản Pàli. Na-tiên Tỳ kheo kinh đã được nhiều vị dịch sang Việt văn như quyển Kinh Na-tiên tỳ kheo của giáo sư Cao Hữu Đính, v.v... (10) Vua Mi-lan-đà tức vua Milinda (ghi theo sử liệu Ấn Độ), Menander I (ghi theo sử liệu Hy Lạp), cai trị vương quốc Ấn-Hy (Indo-Greek Kingdom ) ở Bắc Ấn Độ và Pakistan ngày nay, từ 165 (hay 155) BC tới 130 BC. Sau khi hỏi Đạo nơi ngài Na-tiên, vua truyền ngôi vua lại cho con, xuất gia, tu học và chứng thánh qủa A-la-hán. (11) Ngài Na-tiên tức ngài Nàgasena, một vị Thánh tăng ở Ấn Độ, sống vào khoảng 150 BC. (12) Milindapanho, PTS, London, 1962, tr.74, 102. (13) Milindapanho, tr.74. Đoạn kinh tương đương bên Na-tiên Tỳ kheo kinh là Đại 32, 701c12-21. (14) Milindapanho, tr.107-108. Những lần hỏi và đáp khác về nhất thiết trí của Đức Phật: Milindapanho, tr.191, 210, 217, 132, 267, 272. (15) Trường A Hàm kinh, Đại 1, 4c16-19. Bản dịch Việt văn của thầy Tuệ Sỹ, đăng trên: http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Truong_A_Ham/Tr_002.htm. (16) Trung A Hàm kinh, Đại 1, tr.497c28-498a2. Bản dịch Việt văn của Thầy Tuệ Sỹ, đăng trên: http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/aham_Trung/trung_00.htm. (17) Tạp A Hàm kinh, Đại 2, tr.168c22-23. Bản dịch Việt văn của thầy Đức Thắng, đăng trên: http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/tapaham/tap23.htm#_ftnref44. (18) Tạp A Hàm kinh, Đại 2, tr.181a24-b2. Bản dịch Việt văn của thầy Đức Thắng, đăng trên: http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/tapaham/tap25.htm#_ftn2. (19) Tạp A Hàm kinh, Đại 2, tr.329a10-15. Bản dịch Việt văn của thầy Đức Thắng, đăng trên: http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/tapaham/tap45.htm#_1207. (20) Tăng nhất A Hàm kinh, Đại 2, tr.618b21-26. Bản dịch Việt văn của thầy Đức Thắng, đăng trên: http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/tang nhat/tang_024.htm. (21) Ngũ phần luật, Đại 22, 104a25-26. Đoạn này có nội dung tương đương với đoạn trong kinh Trung bộ, kinh Thánh cầu số 26 và Luật tạng Pàli đã trích dẫn ở trên. Xin xem trang 2 của tiểu luận này. (22) Ma-ha tăng kỳ luật, Đại 22, tr.367b22. (23) Tứ phần luật, Đại 22, 787c1. Bản dịch tiếng Việt của HT.Thích Đỗng Minh, đăng trên http://www.thuvienhoasen.org/tuphanluat-tangsu-01.htm. Đoạn này có nội dung tương đương với đoạn trong kinh Trung bộ, kinh Thánh cầu số 26 và Luật tạng Pàli cùng Ngũ phần luật đã trích dẫn ở trên. Xin xem tr.2, tr.10 của tiểu luận này. (24) Thập tụng luật, Đại 23, 99b1-2; 187c26-28. (25) Luật tạng của bộ phái này không có kết tập thành một bộ có hình thức như Tứ phần luật hay Ngũ phần luật, ngược lại chia ra thành từng phần khác nhau và có tên gọi khác nhau như Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ tì-nại-da hay Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ Tì-nại-da dược sự, v.v... Ở đây xin gọi chung tất cả những phần này là Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ luật. (26) Căn-bản-thuyết-nhất-thiết-hữu-bộ luật, Đại 23, tr.650b12-13; tr.651a21-22. (27) Kinh dạy Vacchagotta về Tam minh số 71, kinh Trung Bộ, HT.Thích Minh Châu dịch, nguồn: http://www.thuvienhoasen.org/u-trung71.htm. (28) Xin xem Tiểu kinh Khổ uẩn số 14, kinh Trung Bô, HT.Thích Minh Châu dịch, nguồn: như trên. (29) Xin xem chú thích số 29 ở trên. (30) Xin xem: Wakahara (1985, tr.52-78); Kawasaki (1985, tr.187-203). Kawasaki (1985, tr.187-203): Kawasaki Shinjo: Buddhism and Its Relation to Other Religions Essays in Honour of Dr. Shozen Kumoi on His Seventieth Birthday.

Trung Quốc công bố xá lợi xương sọ Đức Phật có từ thời nhà Tống

(Nam Kinh, Trung Quốc): Ngày 12-6, qua truyền hình và internet, hàng triệu người ở Trung Quốc đã theo dõi các nhà lãnh đạo Phật giáo và nhà khảo cổ long trọng công bố xá lợi xương sọ Đức Phật Thích Ca được cung nghinh từ Ấn Độ trong triều đại nhà Tống (960- 1279 AD).


Buddha CNTV


Sau khi tham dự lễ cung nghinh và an vị xá lợi xương sọ Đức Phật được tổ chức tại chùa Qixia (TP.Nam Kinh, thủ phủ tỉnh Giang Tô, miền Đông Trung Quốc), Hòa thượng Chuan Yin, Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc cho biết bảo vật được lấy ra lần đầu tiên lúc 9 giờ sáng ngày 12-6 từ một quách nhỏ bằng vàng nằm trong một kim quan bằng bạc là xá lợi xương sọ Đức Phật.

Xá lợi xương sọ Đức Phật có mầu nâu không đồng đều và sáng, trông giống như một hòn đá nhỏ. “Xá lợi có rất nhiều khoang rất giống như một tổ ong”, ông Hua Guorong, Phó Giám đốc Bảo tàng TP.Nam Kinh tiết lộ.

xaloi1.jpg
Lễ cung nghinh và an vị xá lợi xương sọ Đức Phật tại chùa Qixia
 (TP.Nam Kinh) sáng 12-6
xaloi2.jpg

“Việc phát hiện này của chúng tôi phù hợp với những miêu tả về xá lợi xương sọ Đức Phật đã được ghi chép trong sử ký”, Hòa thượng Xue Cheng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc phát biểu và nói thêm rằng xá lợi Phật là bảo vật cực kỳ thiêng liêng đối với Phật tử.

Bên cạnh xá lợi xương sọ Đức Phật, 10 viên xá lợi Phật khác cũng được tìm thấy trong kim quan nhỏ bằng vàng và bạc khác. 108 cao tăng đến từ Trung Quốc, Ma Cao và Đài Loan đã cử hành lễ cung nghinh và an vị tất cả số xá lợi này tại chùa Qixia. Phật tử sẽ có phúc duyên chiêm bái số xá lợi Phật ấy trong một tháng. Để đảm bảo an toàn cho các bảo vật vô giá này, cuộc lễ tiến hành hôm thứ 7 (12-6) được bảo vệ nghiêm ngặt và nhiệt độ bên trong chính điện luôn giữ ổn định ở mức 20 độ C, và độ ẩm từ 55 đến 60%, ông Hua cho biết.

xaloi3.jpg

Xá lợi xương sọ Đức Phật được tôn trí trong bảo tháp có tên là Tháp A-Dục Vương. Các nhà khảo cổ khai quật bảo tháp này cách đây 2 năm dưới nền chính điện của ngôi chùa cũ Changgan thuộc TP.Nam Kinh. Ngôi chùa này được xây dựng năm 1011. Chính điện được phát hiện khi các nhà khảo cổ khởi công khai quật phế tích chùa Đại Báo Ân thuộc TP.Nam Kinh. Chùa Đại Báo Ân được xây dựng trong triều đại nhà Minh (1368-1644 AD).

Tháng 7-2008, các nhà khảo cổ tìm thấy một bia đá ghi rằng chính điện là nơi bảo quản một “bảo tháp 7 tầng của Vua A Dục”, bên trong tháp có các kim quan bằng vàng và bạc tôn trí xá lợi xương sọ và các di vật khác của Đức Phật. Một tháng sau, một hòm sắt chứa bảo tháp được khai quật tại chính điện. Tháng 11-2008, các nhà khảo cổ đã đưa bảo tháp ra khỏi hòm sắt và tìm thấy hai kim quan nhỏ.

xaloi4.jpg
 Một kim quan tôn trí xá lợi xương sọ Đức Phật
xaloi5.jpg
Bảo tháp Vua A Dục

Theo Lu Jianfu, một chức sắc của Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, cách đây 2.500 năm, sau lễ trà tỳ Đức Phật, các đệ tử của Ngài đã nhặt được một xá lợi xương sọ, 4 xá lợi răng, 2 xá lợi xương đòn và 84.000 viên xá lợi khác. Vua A Dục (Asoka), hoàng đế Ấn Độ (273 BC - 232 BC) đã tập hợp tất cả các phần còn lại của Đức Phật sau lễ trà tỳ, tôn trí vào trong các bảo tháp để gửi đến các nơi trên thế giới.

Bảo tháp ở Nam Kinh được coi là một trong hàng chục ngàn bảo tháp của Vua A Dục tôn trí xá lợi Phật. Bảo tháp 4 lớp, cao 1.21 mét, rộng 0.42 mét được cho là lớn nhất trong các bảo tháp đã tìm thấy ở Trung Quốc. Theo tài liệu Phật giáo thời nhà Đường (618-907 AD), Trung Quốc có cả thảy 19 bảo tháp Vua A Dục tôn trí xá lợi Phật. Cho đến nay, người ta cho rằng chỉ mới 7 bảo tháp được phát hiện tại các vùng miền khác nhau của Trung Quốc.

Thích Minh Trí (theo Xinhua)
- Báo Giác Ngộ online -